Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2011

THƠ MAI VĂN PHẤN

 

Cách đây nhiều năm, trên thi đàn nổi lên cái tên một nhà thơ nữ Hải Phòng Dư Thị Hoàn, "TAN VỠ" là một trong những bài thơ hay của chị với những câu thơ giản dị, cô đọng nhưng thể hiện một mỹ cảm rất tinh tế và nữ tính:
Mở ngăn kéo rồi, anh bỏ ngỏ
Bút viết xong không đậy nắp bao giờ
Ôi anh yêu, lơ đãng đến là
Con nai rừng của em…
Tất cả rồi dễ qua đi, qua đi
Chúng mình sẽ thành chồng vợ
Nếu không có một lần
Một lần như đêm nay
Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá
Anh không cài lại khuy áo ngực cho em

Mai Văn Phấn, Đồng Đức Bốn cũng là các nhà thơ Hải Phòng đứng chung trong một cuộc hội thảo thơ tại hải Phòng ngày 15/5/2011. Nếu Đồng Đức Bốn (đã mất) là nhà thơ dân giã từng được đánh giá cao về những bài thơ lục bát hay của mình:

Chăn trâu cắt cỏ trên đồng
Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một cánh diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành than

Thì Mai Văn Phấn là một giọng thơ hoàn toàn khác

(korolbo).

THƠ LÀ NGÔI LỜI

PHẠM XUÂN NGUYÊN


Thơ tuyển Mai Văn Phấn vừa ra mắt bạn đọc. Ngày 15-5-2011, tại Hải Phòng, sẽ diễn ra hội thảo thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, do Chi hội nhà văn Việt Nam tại Hải Phòng và Hội Nhà văn Hải Phòng tổ chức. Nhân dịp này, xin giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên về tập Thơ tuyển Mai Văn Phấn, và 3 bài thơ chọn ngẫu nhiên trong tập.
                                                                                             T.Đ.T
                                                             *
                                                          *    *

Đây là tuyển thơ lần thứ nhất của nhà thơ Mai Văn Phấn.
Từ những bài thơ đầu tiên anh đã muốn khác, và khác. Vẫn trong cái vẻ lục bát nhịp nhàng muốn thành cổ điển, người thơ đặt vào đấy một sự cân xứng trầm tĩnh khá là lạ nếu ta biết khi anh xuất hiện đang ở tuổi trẻ. Câu thơ sáu tám trong cái sự chừng mực của khuôn hình nhưng chữ dùng và nhịp thơ của người viết đã chất chứa một sự thăm dò để bung phá. Anh là một người làm thơ chững chạc ngay từ đầu, có ý thức ngay từ đầu.
Vâng, ngay từ đầu, nhà thơ đã đi tìm. Tìm trong một xác quyết thơ phải khác. Khác với thơ hôm qua, khác với thơ hôm nay. Khác trong mỗi bài, mỗi câu. Khác với chính mình trước mỗi hành động viết thơ. Cho nên rất ít thấy thơ Mai Văn Phấn trong những cuộc điểm danh của dàn đồng ca chung về thơ. Thơ anh đứng hẳn ra một chỗ mà mỗi khi được nói đến là nói với sự trân trọng cùng với một mơ hồ bí ẩn mà người nói chưa dám chắc, còn người được nói thì đang như hứa hẹn. Và quả thật, mỗi tập thơ của Mai Văn Phấn ra đời là một sự khác. Nó được đẩy tới trên con đường đi tìm. Quyết liệt, nhẫn nại, nhà thơ đưa thơ vào những ngõ ngách tâm hồn mình và những thế trận, ma trận chữ. Sáng tạo là làm khác để làm mới, tại sao lại không dám thử con âm con chữ cái nghĩa, tại sao không xới tung những khuôn khổ khung hình tưởng đã yên ổn, vững vàng. Anh đã nghĩ những tại sao như vậy và thơ anh tìm cách trả lời những tại sao đó. Ráo riết, băn khoăn, ngờ vực, tự tin, nhà thơ bắt thơ mình làm ra ướm vào nhiều hình nhiều dạng chữ, nhiều thể cách phát ngôn, nhiều khuôn thức tạo nghĩa. Có thể nói, anh đã nhúng thơ vào cả trường cổ điển và hiện đại, cả hậu hiện đại nữa, để tìm cái anh đi tìm. Đây là một điều theo tôi rất quan trọng, có ý nghĩa thiết yếu đối với người sáng tạo văn chương nghệ thuật, đặc biệt cho thơ và người thơ. Hành động tìm kiếm luôn là tìm cái đi tìm, chứ không phải từ đầu mình đã biết là tìm cái gì. Trong quá trình tìm đó, người viết tạo ra mọi khả năng chữ có thể, và cũng sa vào mọi có thể khả năng chữ, để rồi bất ngờ, ngẫu nhiên mà cũng lại là tất yếu, hắn hạnh ngộ được cái hắn tìm. Chữ bật ra Lời. Thơ là/thành Ngôi Lời. Run rẩy và sững sờ. Thiêng liêng và huyền hoặc. Và khi đó và từ đó, hắn biết mình ở đâu, biết mình là ai trong khoảng không-thời gian của sáng tạo, phút chốc và miên viễn. Trong đời người ta hiếm lắm giây phút được mặc khải, nhưng với thơ sự thần khải có thể lóe lên ở một chữ, một từ. Khi đó nhà thơ là người được ban ân sủng, nói theo cách thường hình dung nhà thơ là tín đồ của một tôn giáo thơ ca, tôn giáo cái đẹp cao cả.
Tôi vừa nói hậu hiện đại của thơ Mai Văn Phấn trên đường tìm thơ. Ở đây hậu hiện đại không phải là ở chỗ hình thức bề ngoài như trình bày bài thơ theo dạng văn bản fax, cũng không phải ở chỗ rối rắm, phức tạp cố ý. Thơ Phấn hậu hiện đại trước hết theo nghĩa mỹ học hậu hiện đại của Jean-Francois Lyotard. Nhà triết học Pháp phân biệt các phạm trù hiện đại và hậu hiện đại trong nghệ thuật theo hai cách. Thứ nhất, chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) được gọi là một phong trào tiền phong thì luôn làm việc bên trong bản thân chủ nghĩa hiện đại (modernism). Nó mới mẻ và khác biệt đến chỉ có thể gọi là hiện đại khi nhìn lại. Theo nghĩa này, chủ nghĩa hậu hiện đại là tinh thần của sự thực nghiệm cuốn chủ nghĩa hiện đại vào những hình thức bấp bênh, luôn thay đổi; nó là sức mạnh phá vỡ làm lung lay những quy tắc đã được công nhận về tiếp nhận và ý nghĩa. Đối với Lyotard một cái gì đó cần phải là hậu hiện đại đã, trước khi nó trở thành hiện đại. Cụ thể, nó cần phải khiến lo lắng trước khi nó trở thành chuẩn mực được chấp nhận. Điều này, Mai Văn Phấn có thể ý thức được hay không, nhưng độc lập và đồng thời cùng một số những nhà thơ khác, anh đã thực hiện những bước đi hậu hiện đại để tìm cách xác lập một giọng điệu khác của thơ, trước hết là cho mình.
Thứ hai, theo Lyotard, nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại có thể phân biệt theo cách sau. Cả hai đều liên quan với cái bất khả thể hiện (unpresentable): cái không thể được trình bày (hay biểu hiện) trong nghệ thuật. Tuy nhiên, nghệ thuật hiện đại trình bày một thực tế là có cái bất khả thể hiện, trong khi nghệ thuật hậu hiện đại cố tìm cách trình bày cái bất khả thể hiện đó. Lyotard viết: “Nghệ sĩ hoặc nhà văn hậu hiện đại ở vị thế của nhà triết học: văn bản hắn viết ra hay tác phẩm hắn tạo ra về nguyên tắc không bị điều khiển bởi những quy tắc được xác lập từ trước… Những quy tắc và phạm trù như vậy là cái mà tác phẩm hay văn bản đang tìm kiếm. Người nghệ sĩ và nhà văn do đó là làm việc không có các quy tắc và để xác lập những quy tắc cho cái đang được làm ra. Đấy là lý do vì sao tác phẩm và văn bản có những đặc tính của một biến cố (event)”. Điều này có nghĩa, văn học nghệ thuật mang tiềm năng biến đổi. Nghệ thuật, theo Lyotard, không đơn giản là phản ánh hiện thực. Đúng hơn, nó can thiệp vào các thể loại diễn ngôn cấu trúc một hiện thực định sẵn và mở ra những khả năng phá vỡ và thay đổi [các thể loại diễn ngôn đó]. Chính là trong tinh thần này, Mai Văn Phấn đã làm bối rối người đọc thơ anh khi họ thấy anh xới tung, lật tung mọi thứ, và tưởng chừng như bế tắc, lúng túng. Quả là đọc thơ anh có lúc nghĩ cũng lo cho người thơ và cho thơ. Lo trong một niềm đồng cảm và chờ đợi.
Bầu trời không mái che. Thì ra những hình thức, thể loại này khác chỉ là những thứ mái che, cần có lúc, nhưng không phải lúc nào cũng cần. Con người sinh ra vốn đầu trần. Thơ khởi thủy là Lời để thành Ngôi Lời. Tuyển thơ Mai Văn Phấn này chứng thực chặng đường người thơ đi từ Chữ về Lời, từ hiện đại về truyền thống. Cái truyền thống vẫn là hồn nhiên, trong trẻo, nhưng đã ngấm chất hiện đại, nên là truyền thống của hiện tại, được nói bằng một giọng điệu Mai Văn Phấn. Một giọng điệu thơ Việt. Giống như ta mang giọng làng quê đi khắp năm châu bốn biển nói nhiều thứ tiếng, khi trở lại làng giọng ta nghe như không đổi mà thực ra là đã đổi đến tưởng như không đổi. Thơ Việt Nam hiện đại có một giọng điệu Nguyễn Quang Thiều chan chứa, tràn trề âm sắc mang nỗi khắc khoải buồn về sự phai nhạt, tàn lụi những giá trị sống truyền thống. Giọng điệu thơ Mai Văn Phấn trầm lắng, vật vã trong câu chữ dồn nén lo âu trước sự tha hóa của nhân sinh hiện thời. Sắc điệu thơ Phấn, thơ Thiều vừa là cái đã tìm thấy vừa vẫn mở ra những cái khác mới đi tìm. Nguyễn Quang Thiều cũng vừa có tuyển thơ lần thứ nhất của mình. Và đây tuyển thơ lần thứ nhất của Mai Văn Phấn. Như vậy, thế hệ thơ mới sau 1975 đã đến, đã ở lại trong thơ Việt bằng một giọng điệu thơ khác, một lối thơ khác. Đó là  một niềm vui mừng.
Đọc tuyển thơ Mai Văn Phấn là đi cùng nhà thơ trở lại con đường thơ của anh và thế hệ anh. Đi cùng và lắng nghe những nỗi xôn xao của người thơ khi bước một mình trên đường và cả tiếng xôn xao của người đọc thơ khi không trên đường một mình như nhà thơ. Trong trường hợp này tôi muốn dẫn lời nhà thơ Pháp Henry Deluy để nói với cả hai: “Trước hết chúng ta cần quy ước với nhau cái ta gọi là thơ. Điều này hoàn toàn không phải là đương nhiên. Có một định nghĩa về thơ như là cuộc trò chuyện với Chúa. Nhưng tôi không tin vào Chúa. Tôi không bao giờ trò chuyện với ông ta. Dù là tôi làm thơ. Và không phải một mình tôi có thái độ như thế. Dùng từ "đe dọa" để nói về thơ, tôi cho là rất không thích hợp. Tôi nghĩ các nhà thơ bao giờ cũng tìm được khả năng để tự thể hiện. Cả cái gọi là nghệ thuật trình diễn, cả cái gọi là thơ thị giác thực ra đều không gây ra hiểm họa nào. Ngược lại, tất cả các cái mới đó giúp mở rộng thêm trường thơ. Hơn nữa, chúng không phải được mang từ ngoài vào, mà phát sinh từ cái chúng ta gọi là thơ.” (Ngân Xuyên dịch). Xin hiểu Chúa ở đây như một biểu tượng. Đối với một nhà thơ mang nhân đức tin mãnh liệt như Mai Văn Phấn, thơ là ánh sáng thiêng liêng của Đấng Toàn Năng luôn soi sáng và dẫn dắt.
Khởi thủy là Lời. Thơ là Ngôi Lời. Trên cánh đồng nhân gian, Mai Văn Phấn vác cây thánh giá thi ca bước đi, và, bước tới dưới bầu trời không có mái che. Mái che của nhà thơ là trời, là Ngôi Lời.

                                                                                          Hà Nội tháng 3. 2011
                                                                                                        P.X.N


MAI VĂN PHẤN

Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ

Pha xong ấm trà
Quay ra
Ông khách không còn ở đó
Gọi điện thoại
Người nhà bảo ông mất đã bảy năm
Nhầm lẫn

Nhà mình
Mọi sự đảo lộn
Không nhớ bức chân dung hạ xuống bao giờ
Đâu rồi chiếc đồng hồ chạy bằng dây cót?
Bộ ấm chén giả cổ ai cho?

Ghé sang hàng xóm
Thử hỏi mấy loại thực phẩm
Loại tăng giá
Loại còn giữ giá.

Trong nhà
Trà vẫn nóng
Đẩy chén nước về phía ông khách đã ngồi.

Luồng tử khí cao chừng một mét sáu dựng đứng trước mặt
Chốc lại cúi gập.


Đúng vậy

Lúc đi
ông mặc áo len màu cổ vịt, quần rộng đũng
tóc cắt ngắn
tay cầm cuốn sách

ra gần cửa còn lẩm bẩm:
sáng rồi tối... thối rồi thơm... bơm rồi xì... đi rồi ngã... vả rồi thương... ương rồi chín... nín rồi thét... kẹt rồi lơi... xơi rồi hóc... bóc rồi che... đe rồi chừa... đưa rồi quỵt... bịt rồi hở... lỡ rồi toi... moi rồi thấy...

chốt cửa gỗ
kéo cửa sắt
ông bấm năm chiếc khóa
rồi ném chìa vào trong nhà

Lật đống chăn nơi ông vẫn nằm
thấy mẩu giấy với nét chữ nguệch ngoạc:
"Ai tìm thấy tôi ở đâu, gọi về số...
Xin cảm ơn và hậu tạ".

sau mẩu giấy vẫn văng vẳng:
quấy rồi đục... nhục rồi than... tan rồi huề... mê rồi tỉnh... thỉnh rồi buông...


Ngậm em trong miệng

Luôn tin có em trong miệng anh

Nơi không chiến tranh, dịch hạch
Mũi tên bắn lén tẩm độc
Thị phi, cạm bẫy, lọc lừa
Lối em đi không còn gai nhọn
Bão tràn qua anh dựng tường ngăn

Bình yên trong miệng anh
Em thúc nhẹ bờ vai
Vòm ngực, ngón chân vào má
Huyên thuyên và hát thầm
Hồn nhiên cho lưỡi và răng anh chạm vào cơ thể

Anh là con cá miệng dàn dụa trăng
Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động
 (Nguồn Blog Trần Đức Tiến)

1 nhận xét:

  1. Phạm viết rất hay về MAi văn Phấn, và bụi phủ đầy trên tóc còn Nguyên.

    Trả lờiXóa